PDA

View Full Version : Lực lượng Phòng cháy, chữa cháy: Chặng đường xây dựng và trưởng thành



Khanh114
12-31-2013, 07:44 PM
Ngày 4/10/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh số 53/LCT của Chủ tịch nước công bố ”Pháp lệnh quy định việc quản lý Nhà nước đối với công tác PCCC”. Sự kiện này đánh dấu sự thay đổi về chất trong công tác PCCC của Nhà nước, đồng thời mở ra trang mới trong lịch sử của lực lượng Cảnh sát PCCC.


I/ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ GÓP PHẦN XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC GIAI ĐOẠN TỪ 1945 ĐẾN NĂM 1986

1. Hoạt động của lực lượng PCCC trước, trong, sau Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống thực dân Pháp (giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954)

Đầu năm 1945, một số anh em binh sỹ Sở Cứu hỏa Sài Gòn - Chợ Lớn đã bắt liên lạc với cán bộ cách mạng và đã tổ chức nhiều cuộc diễn thuyết tố cáo sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp ở đồn điền cao su Phú Riềng, xưởng đóng tàu Ba Son và đồng thời thành lập tổ chức thanh niên tiền phong và Việt Minh của Sở để tổ chức giành chính quyền cơ sở.

Ngày 24/8/1945, Sở chữa lửa Sài Gòn - Chợ Lớn là một trong 6 đơn vị treo cờ đỏ sao vàng đầu tiên của thành phố, cờ đỏ sao vàng đã phấp phới bay trên đỉnh tháp tập của Sở chữa lửa Sài Gòn - Chợ Lớn, tiếp đó ngày 28/8/1945 anh em Sở chữa lửa Sài Gòn - Chợ Lớn đi trên xe chữa cháy tham gia diễu hành cùng hàng vạn người của thành phố. Sau ngày đó, Sở đã giao 2 chiến sỹ chữa cháy bảo vệ lá cờ đỏ sao vàng và một trong hai chiến sỹ trên (đồng chí Hạnh Bum) đã hy sinh dưới tháp tập vì thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta đã bắn chết đồng chí Hạnh. 8h00 ngày 24/9/1945 chiến sỹ Sở cứu hỏa được lệnh rút ra căn cứ, tối 24/9 tổ chức đánh vào Sở chữa lửa giải phóng cướp xe chữa cháy rút về Gò Đen, Bến Lức, Long An tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng 3 xe chữa cháy bị kẹt lại ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn.

Thất bại ở Điện Biên Phủ 7/5/1954, thực dân Pháp có ý đồ di chuyển phương tiện, xe chữa cháy của Hà Nội rút vào Nam nhưng Tổ công đoàn do đồng chí Nguyễn Văn Dần, lái xe, đảng viên 1949 hoạt động bí mật chỉ huy đã đấu tranh giữ toàn bộ phương tiện chữa cháy của Sở cho đến ngày giải phóng Thủ đô và ngày 11/10/1954 đoàn cán bộ thuộc Sở Liêm Phóng vào tiếp quản đội cứu hỏa Hà Nội, tháng 12/1954 Đại đội cứu hỏa Hà Nội thuộc Phòng Trị an dân cảnh được thành lập với 7 xe chữa cháy và gần 60 cán bộ chiến sỹ.


2. Lực lượng PCCC trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ thống nhất đất nước (giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1975)

Ngày 01/01/1955 Đại đội cứu hỏa Hà Nội nhận nhiệm vụ cử một tiểu đội tham gia bảo vệ lễ đài Ba Đình trong buổi mít tinh của nhân dân Thủ đô chào mừng Đảng và Chính phủ sau 9 năm kháng chiến trở về Thủ đô. Cũng trong ngày này, lực lượng PCCC vinh dự được Bác Hồ thân mật bắt tay từng người một và Người đã có lời chúc Tết, lời chúc Tết năm đó luôn là mục tiêu phấn đấu của lực lượng CSPCCC cho đến bây giờ, lời chúc đó là “Nhân dịp năm mới, Bác chúc các chú thất nghiệp nhưng phải tích cực học tập”.

Ngày 27/6/1955 Bộ Công an có Chỉ thị 479/TA-TF hướng dẫn việc phòng hỏa, cứu hỏa và quy định đó là nhiệm vụ của mọi người nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, bảo vệ các công trình kiến thiết, các cơ sở kinh tế quốc gia, ngăn ngừa hành vi phản cách mạng và phá hoại của kẻ địch.

Ngày 30/12/1955 Chính phủ có Thông tư 3366/CP về việc giao Bộ Công an quản lý công tác phòng, cứu hỏa và tiếp nhận xe và máy bơm chữa cháy do Liên Xô viện trợ.

Ngày 27/3/1956 Bộ Công an có Chỉ thị số 347/TA về việc xây dựng lực lượng PCCC chuyên nghiệp ở miền Bắc. Ngày 01/06/1956 Bộ Công an có quyết định số 1175/V2 quy định về nguyên tắc, nhiệm vụ, cơ cấu và chế độ làm việc của đội cứu hỏa, trong đó còn quy định rõ đội cứu hỏa thành phố, thị xã là một bộ phận của Cảnh sát nhân dân.

Thực hiện Thông tư của Chính phủ và Chỉ thị của Bộ Công an, cuối năm 1956, 11 đơn vị phòng hỏa, cứu hỏa của các tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hồng Quảng, Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Nam, Hải Dương, Lạng Sơn, Phú Thọ, Thái Nguyên lần lượt được thành lập; lực lượng cứu hỏa bắt đầu chỉnh quân, tập luyện và tập huấn nghiệp vụ PCCC, PCCC xăng dầu do chuyên gia Liên Xô dạy.

Đến năm 1958 Bộ Công an có Quyết định thành lập Phòng phòng cháy, chữa cháy (P8) thuộc Vụ trị an dân cảnh (V10) của Bộ Công an.

Tháng 7 năm 1959, Bộ Công an đã đưa đoàn học sinh đầu tiên đi học tại Trường Trung học PCCC Lêningrat - Liên Xô gồm 6 đồng chí. Đến tháng 9/1963 lớp cán bộ đầu tiên của ta tốt nghiệp ra trường về nước nhận công tác.

Công tác cử người đi đào tạo ở các nước có nền khoa học kỹ thuật PCCC tiên tiến như Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức được Bộ Công an đặc biệt quan tâm. Tính từ 1962 đến năm 1991 đã có 116 đồng chí được đào tạo tại Trường Đại học PCCC Matxcơva – Liên Xô, 61 đồng chí được đào tạo tại Trường Trung cấp Lêningrat, 30 đồng chí được đào tạo tại Trường Đại học kỹ sư thực hành PCCC ở Cộng hòa dân chủ Đức. Đặc biệt có 16 đồng chí đã bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sỹ khoa học PCCC ở Liên Xô.

Trước yêu cầu phát triển kinh tế ở miền Bắc (kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961-1965). Bộ Công an giao cho Vụ Trị an dân cảnh xây dựng một văn bản pháp quy về PCCC để đề nghị Nhà nước ban hành (lúc đó tham gia xây dựng văn bản này có đồng chí Nguyễn Tăng Điện, sau này đồng chí là Cục trưởng Cục PCCC, Thiếu tướng, Phó TCT Tổng cục Hậu cần, Bộ Công an).

Đến ngày 12/8/1961 bản dự thảo Pháp lệnh được Hội đồng Chính phủ trình lên Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đến ngày 4/10/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh số 53/ LCT của Chủ tịch nước công bố “Pháp lệnh quy định việc quản lý của Nhà nước đối với công tác PCCC”. Sự kiện này đánh dấu sự thay đổi về chất trong công tác PCCC của Nhà nước, đồng thời mở ra một trang mới trong lịch sử của lực lượng Cảnh sát PCCC. Một tình huống đáng lưu ý là tên gọi của dự thảo văn bản pháp quy này qua từng bước có sự thay đổi cho đúng hơn: Đầu tiên Bộ Công an dự thảo là “Luật phòng hỏa, cứu hỏa Việt Nam”, đến Văn phòng Nội chính Phủ Thủ tướng đề nghị là “Pháp lệnh quy định việc giám sát của Nhà nước đối với công tác phòng hỏa, cứu hỏa”, Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa hai chữ “giám sát” thành hai chữ “quản lý”. Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên nội dung của tên gọi, chỉ thay đổi cụm từ “phòng hỏa, cứu hỏa” bằng cụm từ “phòng cháy và chữa cháy” cho dễ hiểu hơn. Người nói vui: Xảy ra cháy thì phải “chữa” chứ sao lại “cứu”, như vậy đủ thấy sự quan tâm của Bác Hồ và cơ quan lập pháp đối với công tác PCCC.

Tiếp đó ngày 28/12/1961, Chính phủ ra Nghị định số 220/CP để hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước đối với công tác PCCC. Ngày 29/12/1961, Chính phủ ra Nghị định 221/CP để hướng dẫn công tác PCCC rừng.

Ngay sau Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước đối với công tác PCCC được ban hành, lực lượng PCCC đã nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy từ trung ương đến các địa phương trên toàn miền Bắc.

Ở Trung ương, Cục PCCC chính thức được thành lập, Cục có 3 Phòng và 1 trạm thí nghiệm, quân số của Cục có 29 người.

Ở các địa phương miền Bắc, các đơn vị phòng cháy, chữa cháy: Hà Bắc, Ninh Bình, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Hà Tĩnh,… lần lượt được thành lập.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là trong những năm chống chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của đế quốc Mỹ, lực lượng PCCC đã tổ chức xây dựng được phong trào quần chúng tham gia công tác PCCC rộng khắp, làm nòng cốt trong phong trào ba phòng “phòng gian, phong gián, phòng hỏa”; kiểm tra an toàn PCCC các nhà máy, xí nghiệp, kho tàng, nông trường, công trường…, nghiên cứu đề xuất ban hành tiêu chuẩn PCCC để thiết kế xây dựng nhà, công trình công nghiệp và dân dụng, chuẩn bị lực lượng và phương tiện thường trực sẵn sàng chữa cháy; tham mưu đề xuất và chỉ đạo, hướng dẫn việc sơ tán, phân tán tài sản, vật tư chiến lược, vũ khí, đạn dược; đặc biệt đã phối hợp với lực lượng dân phòng khắc phục khó khăn, không ngại hy sinh gian khổ, sáng tạo và dũng cảm chiến đấu dập lửa, cứu tài sản, hàng hóa trong làn bom đạn của giặc Mỹ, dập tắt kịp thời hàng ngàn vụ cháy. Điển hình là các vụ chữa cháy trận địa tên lửa và pháo phòng không tại Đồng Giao, Ninh Bình, đơn vị PCCC đã được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (01/01/1967); vụ chữa cháy 4 xà lan lớn chở xăng dầu trên Vịnh Hạ Long, đơn vị PCCC Hòn Gai được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1/1/1967); vụ chữa cháy thị xã Đồng Hới, Quảng Bình, đơn vị PCCC Quảng Bình được tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2/9/1973); vụ chữa cháy tàu Alecxandra của Liên Xô chở hàng viện trợ cho ta ở cảng Hải Phòng và vụ chữa cháy kho xăng dầu Thượng Lý, Hải Phòng, đơn vị PCCC Hải Phòng được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2/9/1973); vụ chữa cháy khu lắp ráp tên lửa ở đồi Nhơm, Triệu Sơn, Thanh Hóa, đơn vị PCCC Thanh Hóa được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2/9/1973); vụ chữa cháy tổng kho xăng dầu Đức Giang và hàng trăm vụ cháy lớn phức tạp khác xảy ra trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” ở Hà Nội, đội PCCC Lộc Hà được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2/9/1973). Đặc biệt là vụ chữa cháy kho xăng dầu Đức Giang, do biết vận dụng sáng tạo kỹ thuật và chiến thuật phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của chiến tranh, lực lượng Cảnh sát PCCC đã dập tắt nhanh chóng đám cháy cứu được hàng ngàn tấn xăng dầu, với thành tích này lực lượng Cảnh sát PCCC Thủ đô đã được Bác Hồ gửi thư khen, trong đó có 4 điều dạy của Người đã trở thành kim chỉ nam cho hoạt động của lực lượng Cảnh sát PCCC.

Trong cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, lực lượng Cảnh sát PCCC đã nghiên cứu, chế tạo trên 5.000 bom cháy và vũ khí gây cháy phục vụ việc đánh phá kho tàng, hậu cứ của địch. Trong cuộc tổng tiến công giải phòng miền Nam năm 1975, lực lượng Cảnh sát PCCC đã theo sát quân chủ lực tiếp quản những đô thị mới được giải phóng và triển khai kịp thời lực lượng, phương tiện và các biện pháp PCCC, góp phần giữ gìn và ổn định an ninh trật tự cho nhân dân.

Ngày 20/7/1971 Bộ Công an quyết định thành lập Phân hiệu PCCC gọi tắt là Phân hiệu 11 thuộc Trường Cảnh sát nhân dân với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ PCCC cho cán bộ sỹ quan, hạ sỹ quan của lực lượng CSPCCC.

Tháng 7/1973 sau khi giải phóng Quảng Trị, lực lượng PCCC đã chi viện 33 cán bộ chiến sỹ để thành lập đơn vị PCCC Quảng Trị, đơn vị này có nhiệm vụ bảo vệ các chuyến hàng vận chuyển vào miền Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh, bảo vệ đại diện của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam và đại diện các đoàn ngoại giao của các nước tại Quảng Trị.

Tháng 3/1975 Thừa Thiên Huế được giải phóng, lực lượng PCCC đã cử cán bộ vào tiếp quản thành phố Huế và thành lập phòng Cảnh sát PCCC Bình Trị Thiên.

Ngày 29/3/1975 Bộ quyết định điều động 182 cán bộ chiến sỹ và 30 xe chữa cháy của Cục và 11 đơn vị các tỉnh phía Bắc chi viện cho chiến trường B2 và tham gia đoàn tiếp quản, quản lý thành phố Sài Gòn và chi viện cho Ban an ninh nội chính miền Nam Việt Nam.

Ngày 30/4/1975 đoàn cán bộ PCCC của Công an Hà Nội đã phối hợp với lực lượng PCCC chi viện cho chiến trường B2 tiếp quản Sở chữa lửa Sài Gòn - Chợ Lớn và Phòng Cảnh sát PCCC thành phố Sài Gòn được thành lập. Tiếp đó lần lượt các đơn vị PCCC miền Trung Nam Bộ, đồng bằng Sông Cửu Long, Tây Nguyên và Lâm Đồng được thành lập.


3. Lực lượng PCCC bảo vệ công cuộc xây dựng đất nước sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1986)

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh, lực lượng Cảnh sát PCCC vừa củng cố, xây dựng lực lượng tại các tỉnh phía Nam, vừa thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia PCCC; kiểm tra, hướng dẫn biện pháp an toàn cho các kho tàng, bến bãi, cơ sở kinh tế, quốc phòng, phục vụ phát triển kinh tế. Trong lúc đất nước gặp khó khăn về nhiên liệu, lại liên tiếp xảy ra cháy hầm lò khai thác than, việc cứu chữa rất khó khăn vì thiếu phương tiện, thiết bị đặc chủng, nhưng với sự sáng tạo trong việc ứng dụng KHKT, lực lượng Cảnh sát PCCC đã ngăn chặn và dập tắt không để gây thiệt hại nghiêm trọng, điển hình là chữa cháy mỏ than Ngọc Kinh (Đà Nẵng) lực lượng Cảnh sát PCCC đã sáng tạo dùng khói bom Napan để dập tắt đám cháy; vụ cháy mỏ than Vàng Danh sâu trong lòng đất gây nhiều khó khăn cho công tác cứu chữa, bằng những giải pháp khoa học, sáng tạo, lực lượng Cảnh sát PCCC đã dập tắt đám cháy, giúp Mỏ khôi phục hoạt động, khai thác ngay sau đó.

Ngày 2/9/1976 đồng chí Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn ký quyết định thành lập Trường Hạ sỹ quan Cảnh sát PCCC trực thuộc Cục Cảnh sát PCCC trên cơ sở Phân hiệu 11 của Trường Cảnh sát nhân dân.

Đến 19/6/1984 do yêu cầu đào tạo cán bộ, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã có quyết định số 90/QĐ/HĐBT thành lập Trường Cao đẳng PCCC. Ngày 6/11/1984, Bộ trưởng Phạm Hùng ký Quyết định nâng Trường Hạ sỹ quan Cảnh sát PCCC thành Trường Cao đẳng PCCC trực thuộc Tổng cục Cảnh sát.

Khanh114
12-31-2013, 07:51 PM
II/ LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT PCCC TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI VÀ CNH – HĐH ĐẤT NƯỚC (GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2011)

1. Công tác xây dựng văn bản pháp luật về PCCC
Để kịp thời phục vụ sự nghiệp phát triển KT - XH và công cuộc đổi mới của đất nước, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu, đề xuất, giúp Bộ Công an từng bước hoàn thiện hành lang pháp lý trong lĩnh vực PCCC. Các văn bản đã xây dựng và đề xuất ban hành là:

- Tổng kết 30 năm thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước đối với công tác PCCC, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu cho Bộ Công an đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 175/TTg ngày 31/5/1991 về tăng cường công tác PCCC;

- Tổng kết 35 năm thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước đối với công tác PCCC, 5 năm thực hiện Chỉ thị 175/TTg ngày 31/5/1991 về tăng cường công tác PCCC, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu cho Bộ Công an đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 237/TTg ngày 19/4/1996 về tăng cường các biện pháp thực hiện công tác PCCC;

- Tổng kết 40 năm thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước đối với công tác PCCC, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu , đề xuất và đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 9 thông qua Luật PCCC và có hiệu lực thi hành từ ngày 4/10/2001. Tiếp theo đó đã đề xuất Chính phủ ban hành 4 Nghị định: Nghị định số 35/2003/NĐ-CP ngày 4/4/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCCC; Nghị định số 123/2005/NĐ-CP ngày 5/10/2005 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC; Nghị định số 09/2006/NĐ-CP ngày 16/01/2006 của Chính phủ quy định về PCCC rừng; Nghị định 130/2006/NĐ-CP ngày 08/11/2006 của Chính phủ quy định chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc. Đề xuất Bộ Công an ban hành 3 Thông tư về PCCC: Thông tư 04/2004/TT-BCA của Bộ Công an hướng dẫn thi hành Nghị định 35/2003/NĐ-CP ngày 04/4/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCCC; Thông tư liên tịch Tài chính – Công an số 41/2006/TTLT-TC-CA về hướng dẫn một số điều về Nghị định 130/2006/NĐ-CP ngày 08/11/2006 của Chính phủ quy định chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc; Thông tư liên tịch Bộ Xây dựng – Bộ Công an số 04/2009/TTLT-BXD-BCA ngày 10/4/2009 hướng dẫn thực hiện việc cấp nước phòng cháy, chữa cháy tại đô thị và khu công nghiệp;

- Tổng kết 45 năm thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước đối với công tác PCCC, 5 năm thực hiện Luật PCCC, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu cho Bộ Công an đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 02/2006/CT-TTg ngày 23/01/2006 về tăng cường chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả công tác PCCC;

- Tiến tới kỷ niệm 50 năm ngày ban hành Pháp lệnh PCCC và tổng kết 10 năm thi hành Luật PCCC, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu cho Bộ Công an đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 1634/CT-TTg ngày 31/8/2010 về việc tăng cường chỉ đạo và thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách, trọng tâm trong công tác PCCC và CNCH;

- Chủ trì và phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng, rà soát, bổ sung chỉnh lý trên 40 quy chuẩn, tiêu chuẩn về PCCC và hàng chục quy trình công tác;

Hiện đang tiếp tục xây dựng một số văn bản quy phạm pháp luật về PCCC: Nghị định về phối hợp Công an – Quốc phòng trong công tác PCCC; Nghị định về công tác cứu nạn, cứu hộ…; các Thông tư, tiêu chuẩn, quy chuẩn PCCC khác.

2. Công tác tuyên truyền và xây dựng phong trào toàn dân PCCC
Xác định công tác tuyên truyền và xây dựng phong trào toàn dân PCCC là một biện pháp phòng ngừa xã hội và là hoạt động mang tính xã hội rộng rãi, cần có sự phối, kết hợp của các cấp, các ngành và quần chúng nhân dân. Do vậy, ngay từ những năm đầu thời kỳ đổi mới, lực lượng Cảnh sát PCCC đã không ngừng đổi mới phương pháp, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền và phát động phong trào quần chúng PCCC.

a)Về công tác tuyên truyền
- Ngoài các hình thức tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh của xã, phường, thị trấn…; tổ chức tuyên truyền lưu động; phát hành khuyến cáo, tờ rơi về PCCC; treo, gắn pa nô, khẩu hiệu về PCCC trong các dịp Tuần lễ quốc gia về ATVSLĐ-PCCN, dịp 4/10 hàng năm…, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền phong phú như tổ chức các cuộc thi tác phẩm báo chí, thi sáng tác tranh, ảnh về PCCC, tổ chức liên hoan phim truyền hình, sân khấu hóa các hoạt động PCCC, tổ chức chương trình tuyên truyền cổ động trực quan…

- Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng ở Trung ương và địa phương phản ánh và thông tin kịp thời các vụ cháy, các hoạt động PCCC của các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị; lồng ghép nội dung PCCC vào các chương trình trò chơi trên truyền hình như ”Chiếc nón kỳ diệu”, “Ở nhà chủ nhật”, “Ai là triệu phú”, “Đấu trường 100”… Tổ chức tuyên truyền đậm nét vào dịp “Ngày toàn dân PCCC’, dịp mùa hanh khô và Tết Nguyên đán, dịp diễn ra các sự kiện chính trị lớn của đất nước… bằng các phóng sự, chuyên đề cảnh báo nguy cơ cháy và hướng dẫn các biện pháp PCCC, các đúp tuyên truyền, cổ động nhắc nhở người dân PCCC; tổ chức các buổi tọa đàm, đối thoại về PCCC…

b) Về công tác xây dựng phong trào toàn dân PCCC
- Vận dụng quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta trong công tác PCCC là: Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia hoạt động PCCC, trong hoạt động PCCC lấy phòng ngừa là chính và mọi hoạt động PCCC trước hết phải được giải quyết bằng lực lượng và phương tiện tại chỗ, trong những năm qua, phong trào toàn dân tham gia PCCC ngày càng phát triển sâu rộng. Đặc biệt là từ khi Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 369/TTg ngày 04/6/1996 lấy ngày 4/10 hàng năm là “Ngày PCCC toàn dân”, theo đó, cứ đến dịp này tại các địa phương trên cả nước, hàng vạn quần chúng nhân dân đã nô nức tham gia các hoạt động PCCC như: Mít tinh, diễu hành biểu dương lực lượng; hội thao, hội thi PCCC; tham gia ký cam kết đảm bảo an toàn PCCC tại các chợ và khu dân cư…; việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong công tác PCCC được nhiều địa phương hưởng ứng như TP Hồ Chí Minh, Thái Nguyên, Nam Định, Hà Nội…; công tác xây dựng và nhân điển hình tiên tiến về PCCC được chú trọng duy trì, hàng năm các địa phương đã xét và công nhận được hàng trăm đơn vị điển hình tiên tiến về PCCC; mô hình “Cụm dân cư an toàn PCCC”, “Câu lạc bộ chiến sỹ PCCC trẻ tuổi” tiếp tục được nhân rộng, đặc biệt Hải Phòng đã nghiên cứu triển khai và duy trì hiệu quả mô hình “Cụm cơ quan, doanh nghiệp an toàn PCCC” trên địa bàn, hiện Nam Định và Thái Nguyên đang vận dụng kinh nghiệm này vào thực tiễn địa phương mình.

- Việc xây dựng và duy trì hoạt động của lực lượng PCCC tại chỗ trong điều kiện kinh tế thị trường mặc dù gặp nhiều khó khăn, song theo thống kê, cả nước hiện đã xây dựng được trên 65.000 đội PCCC cơ sở và dân phòng với trên một triệu đội viên, hàng năm lực lượng này đã phát hiện và tổ chức dập tắt kịp thời trên 60% tổng số vụ cháy, góp phần ngăn chặn nguy cơ cháy lớn, gây thiệt hại nghiêm trọng.

3. Công tác kiểm tra an toàn PCCC và quản lý vật liệu nổ công nghiệp
a) Về công tác kiểm tra an toàn PCCC
- Lực lượng Cảnh sát PCCC thường xuyên tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra; tăng cường công tác điều tra cơ bản, phân loại cơ sở thuộc diện quản lý về công tác PCCC theo quy định. Đổi mới công tác kiểm tra, trong đó nhiều địa phương đã tranh thủ đề xuất Đại diện Hội đồng nhân dân, lãnh đạo UBND địa phương tham gia chủ trì kiểm tra trực tiếp và giải quyết một số vấn đề bức xúc về công tác PCCC trên địa bàn, từ đó đã có tác động tích cực đến người đứng đầu đơn vị, cơ sở trong việc đảm bảo an toàn PCCC trong cơ quan, đơn vị mình.

- Hàng năm đã tổ chức nhiều đợt kiểm tra theo chuyên đề (chợ, trung tâm thương mại, khu dân cư, nhà cao tầng, các cơ sở xăng dầu, dầu khí, vật liệu nổ công nghiệp…) vào các dịp diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, dịp mùa hanh khô và bảo vệ Tết Nguyên đán. Qua kiểm tra đã phát hiện và kiến nghị cơ sở và cơ quan, tổ chức khắc phục kịp thời các sơ hở, thiếu sót và vi phạm quy định về PCCC.

- 25 năm qua, toàn lực lượng Cảnh sát PCCC đã kiểm tra và phúc tra về PCCC được 1.845.213 lượt cơ sở, lập 1.762.319 biên bản kiểm tra; phát hiện và hướng dẫn khắc phục trên 4.500.000 thiếu sót, tồn tại về PCCC.

b) Về công tác quản lý vật liệu nổ công nghiệp
- Đã tích cực chủ động phối hợp với các lực lượng trong ngành Công an và các cơ quan liên quan tăng cường kiểm tra, giám sát việc sản xuất, cung ứng, sử dụng của các đơn vị có hoạt động về vật liệu nổ công nghiệp (VLNCN). Tại các kho đầu mối trên cả nước, trung bình mỗi cơ sở được kiểm tra an toàn PCCC ít nhất 2 lần/năm.

- Công tác quản lý, cấp phép vận chuyển VLNCN được đảm bảo chặt chẽ, đúng quy định và có những bước chuyển biến rõ rệt về các thủ tục hành chính, giảm thời gian nhưng vẫn đảm bảo an toàn tuyệt đối trong quá trình vận chuyển.

Trong 25 năm qua, với nỗ lực của lực lượng Cảnh sát PCCC đã góp phần không để xảy ra 1 sự cố cháy, nổ và mất cắp VLNCN tại các kho đầu mối, đảm bảo an toàn các sự kiện quan trọng của đất nước.

4. Công tác thẩm duyệt về PCCC
Trong 25 năm qua, lực lượng Cảnh sát PCCC đã thẩm duyệt về PCCC trên 68.000 công trình, trong đó:

- Giai đoạn 1986 – 2000, giai đoạn trước khi có Luật PCCC: Số dự án, công trình được thỏa thuận về thiết kế và thiết bị PCCC là 18.692 công trình.

- Giai đoạn 2001 – 2010, giai đoạn sau khi có Luật PCCC: Số dự án, công trình được thỏa thuận thiết kế và thiết bị PCCC là 49.316 công trình.

Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, số lượng các dự án, công trình xây dựng được thẩm duyệt tăng lên tương ứng, nhất là các công trình quy mô lớn, phức tạp, cơ sở có dây chuyền công nghệ hiện đại ngày càng nhiều. Nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn nêu trên, lực lượng Cảnh sát PCCC đã không ngừng đổi mới công tác thẩm duyệt về thiết kế và thiết bị PCCC (về thời gian; về phương pháp thực hiện; về áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn, đặc biệt là các tiêu chuẩn, quy chuẩn nước ngoài). Trong quá trình thẩm duyệt và nghiệm thu, lực lượng Cảnh sát PCCC đã hướng dẫn chủ đầu tư, đơn vị thiết kế về những giải pháp, biện pháp PCCC, đồng thời kiến nghị khắc phục hàng chục vạn thiếu sót, vi phạm quy định, tiêu chuẩn về PCCC từ khi thiết kế công trình… Điển hình là khi thẩm duyệt về PCCC Trạm biến áp 500KV của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, Cục Cảnh sát PCCC kiên quyết yêu cầu thực hiện xây tường ngăn cháy giữa 7 trạm biến áp (Chủ đầu tư và cơ quan thiết kế chỉ muốn xây dựng tường ngăn cháy bao quanh 7 máy). Ngày 25/4/2000, sét đánh gây cháy, nổ 1 trạm biến áp làm phun dầu ra xa hơn 20 mét gây cháy lớn nhưng do có tường ngăn cháy từng máy nên không cháy lan sang 6 máy còn lại (mỗi máy trị giá khoảng 1,2 triệu USD).

5. Công tác hướng dẫn và tổ chức chữa cháy và CNCH
- Lực lượng Cảnh sát PCCC đã chủ động xây dựng mới, chỉnh lý, bổ sung các bài chiến thuật chữa cháy, biện pháp chữa cháy đối với các cơ sở, dây chuyền công nghệ mới như: Chiến thuật chữa cháy đối với các cơ sở chế biến, chuyền tải dầu mỏ, khí đốt; chiến kỹ thuật chữa cháy đối với chợ, trung tâm thương mại, nhà nhiều tầng, các cơ sở sản xuất có quy mô lớn…, xây dựng tài liệu hướng dẫn sử dụng các trang thiết bị PCCC mới phù hợp với thực tế.

- Công tác xây dựng và thực tập phương án chữa cháy luôn được nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện hơn. Từ phương án chữa cháy đã nghiên cứu xây dựng phiếu chiến thuật chữa cháy, trong đó thể hiện những nội dung cơ bản nhất, cần thiết nhất khi chữa cháy ở cơ sở và được tổ chức sử dụng có hiệu quả. Đã xây dựng và tổ chức diễn tập hàng chục phương án xử lý các tình huống cháy, nổ lớn có sự tham gia của nhiều lực lượng, phương tiện của các ngành, quân đội và nhiều địa phương.

- Lực lượng Cảnh sát PCCC đã tập trung khắc phục tình trạng thiếu chiến sỹ chữa cháy (tham mưu cho Bộ Công an tuyển chiến sỹ nghĩa vụ bổ sung cho lực lượng trực tiếp chữa cháy) và tổ chức khoa học, hợp lý công tác thường trực sẵn sàng chiến đấu. Hàng năm, lực lượng Cảnh sát PCCC đã phối hợp với lực lượng cơ sở, dân phòng và các lực lượng khác kịp thời cứu chữa nhiều vụ cháy lớn, nguy hiểm, hạn chế được thiệt hại mang lại hiệu quả tốt như: Vụ chữa cháy các kho đạn ở Tuyên Quang, Vĩnh Phúc và Quảng Nam Đà Nẵng; vụ chữa cháy tàu trên sông Cửu ở Cẩm Phả (Quảng Ninh); các vụ chữa cháy chợ Vinh (Nghệ An), chợ Sắt (Hải Phòng); vụ chữa cháy bệnh viện Chợ Rẫy (TP Hồ Chí Minh) đã bảo vệ an toàn khu nhà bệnh nhân… Chỉ tính riêng hiệu quả công tác chữa cháy, hàng năm lực lượng CSPCCC đã cứu được lượng tài sản khoảng 2.000 – 3.000 tỷ đồng, đã trực tiếp cứu và tổ chức thoát nạn cho hàng trăm người.

- Ngoài việc trực tiếp tham gia chữa cháy, lực lượng Cảnh sát PCCC đã chủ động nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án tham gia chống bạo loạn, gây rối, biểu tình, chống khủng bố; giải quyết các điểm nóng về an ninh nông thôn; cưỡng chế giải phóng mặt bằng; chống đua xe trái phép… và đã trực tiếp tham gia giải quyết nhiều vụ việc, đạt kết quả tốt được lãnh đạo các địa phương và nhân dân ghi nhận, góp phần xứng đáng vào thành tích chung của lực lượng CAND.

6. Công tác đầu tư trang bị phương tiện PCCC và CNCH
- Từ năm 1991 về trước, toàn bộ phương tiện chữa cháy trang bị cho lực lượng Cảnh sát PCCC là do Liên Xô và Cộng hoà dân chủ Đức viện trợ không hoàn lại, trung bình mỗi năm 20 xe chữa cháy, 20 máy bơm, 20.000 mét vòi chữa cháy và một số trang thiết bị chữa cháy khác.

- Từ sau năm 1991 đến nay, toàn bộ việc đầu tư trang bị phương tiện PCCC và CNCH nước ta phải tự lo. Tuy nhiên, mức đầu tư kinh phí cho lực lượng Cảnh sát PCCC rất hạn chế và công tác trang bị phương tiện chữa cháy gặp nhiều khó khăn, có năm, cả lực lượng Cảnh sát PCCC chỉ được cấp 900 triệu đồng để đầu tư, trang bị phương tiện PCCC.

Trước thực trạng như vậy, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu cho Bộ Công an đề xuất Chính phủ cho phép xây dựng và triển khai một số dự án sử dụng ngân sách của nhà nước, đồng thời thực hiện một số dự án vay vốn ưu đãi của nước ngoài để đầu tư cho hoạt động PCCC như dự án “Đầu tư nâng cấp phương tiện chữa cháy” trị giá 130 tỷ đồng; dự án “Đầu tư trang thiết bị tìm kiếm cứu nạn cho lực lượng CSPCCC từ năm 2007 đến năm 2015” trị giá hơn 500 tỷ đồng….

- Các Bộ, ngành và địa phương cũng đã quan tâm đến việc đầu tư cho hoạt động PCCC nói chung và trang bị phương tiện chữa cháy nói riêng. Đến nay có 42 địa phương đầu tư gần 400 tỷ đồng, trang bị thêm gần 100 xe chữa cháy, 136 máy bơm, 12 xe thang, 2 xe cứu nạn, cứu hộ và nhiều phương tiện chữa cháy khác; xây dựng, cải tạo một số doanh trại, tạo thêm nguồn nước chữa cháy…

Trước năm 1991, chỉ có số ít phương tiện chữa cháy và chủ yếu là của các nước XHCN cũ, chất lượng không cao thì đến nay, toàn lực lượng Cảnh sát PCCC đã có 724 xe chữa cháy; 337 xe chuyên dùng; 325 máy bơm chữa cháy và nhiều trang thiết bị PCCC khác. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tế hiện nay thì vẫn thiếu rất nhiều phương tiện chữa cháy cũng như cứu nạn, cứu hộ, đặc biệt là các xe chuyên dùng như xe thang, xe hút khói, xe cấp cứu sự cố, xe thông tin chiếu sáng…

7/ Công tác xây dựng lực lượng Cảnh sát PCCC
- Ngày 14/10/1999, trước yêu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định thành lập Trường Đại học PCCC trên cơ sở Trường Cao đẳng PCCC, Trường Đại học PCCC trực thuộc Bộ Công an và chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

- Lực lượng CSPCCC được tổ chức và bố trí khắp trên toàn quốc từ Trung ương đến địa phương.

- Ở Trung ương có Cục Cảnh sát PCCC và cứu nạn, cứu hộ, gồm 9 đơn vị trực thuộc, đó là: Phòng Tham mưu (P1); Phòng Thanh tra, kiểm tra phòng cháy, chữa cháy(P2); Phòng Thẩm duyệt về phòng cháy, chữa cháy (P3); Phòng Công tác chữa cháy (P4); Phòng Hậu cần (P5); Phòng Tuyên truyền và xây dựng phong trào toàn dân PCCC và CNCH (P6); Phòng Hướng dẫn điều tra – xử lý về cháy, nổ (P7); Phòng Hướng dẫn, chỉ đạo công tác cứu nạn, cứu hộ (P8); Trung tâm Nghiên cứu khoa học và tư vấn, chuyển giao công nghệ PCCC và CNCH.

- Ở địa phương:
+ Trước năm 2006, cả nước có 64 Phòng Cảnh sát PCCC.
+ Năm 2006, trước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thí điểm thành lập Sở Cảnh sát PCCC TP Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với công tác PCCC tại Trung tâm kinh tế, chính trị lớn này.
+ Năm 2010, Chính phủ đã chủ trì tổ chức sơ kết 3 năm thí điểm thành lập Sở Cảnh sát PCCC và đánh giá đây là mô hình tốt cần nhân rộng.
+ Ngày 30/12/2010, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định thành lập thêm 7 sở Cảnh sát PCCC tại các địa phương: Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng, Cần Thơ, Bình Dương và Đồng Nai.

Tính đến đầu năm 2010, toàn quốc có 156 đội Cảnh sát PCCC với trên 8.000 cán bộ, chiến sỹ.

8. Công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật PCCC
Công tác nghiên cứu khoa học được triển khai mạnh mẽ, mang lại hiệu quả tích cực: 25 năm qua, lực lượng CSPCCC đã nghiên cứu và bảo vệ thành công trên 70 đề tài cấp Bộ và đề tài cấp cơ sở, 49 đề tài đã được ứng dụng vào thực tiễn, điển hình như: Nghiên cứu sản xuất bọt hòa không khí chữa cháy xăng dầu; ứng dụng chất chữa cháy không phá hủy tầng ôzôn trong hệ thống chữa cháy tự động; công nghệ sản xuất lăng phun nước chữa cháy cầm tay đa tác dụng L51-01-C23; nghiên cứu ứng dụng sản xuất chất tạo bọt A-B, sản xuất bình bột chữa cháy loại 2 và 5 kg phục vụ cho công tác trang bị phương tiện chữa cháy trong giai đoạn khó khăn 1986-1995…; ngoài ra còn phối hợp với các Bộ, ngành, các trường Đại học và các cơ sở sản xuất nghiên cứu trên 60 đề tài về PCCC.

9. Công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế
- Trước năm 1990, công tác đối ngoại của lực lượng CSPCCC chủ yếu là quan hệ với Liên Xô (cũ) và các nước XHCN Đông Âu trong việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm thông qua các hoạt động hội nghị, hội thảo PCCC; cử cán bộ đi đào tạo cử nhân, kỹ sư, tiến sỹ khoa học kỹ thuật PCCC; tiếp nhận phương tiện chữa cháy do các nước này viện trợ.

- Sau khi có biến động chính trị, tuy không còn nguồn viện trợ về phương tiện PCCC cũng như đào tạo cán bộ, song lực lượng CSPCCC tiếp tục giữ mối quan hệ truyền thống với các nước này, mặt khác chủ động mở rộng quan hệ hợp tác và cử nhiều đoàn công tác, tham quan tại các nước trong khu vực và các nước có nền khoa học phát triển như: Nhật Bản, Áo, Pháp, Đức, Mỹ, Hàn Quốc, Singapo, Thái Lan, Malaixya…; đã tham gia và là thành viên của Hiệp hội PCCC Thế giới (1993), tham gia vào Tổ chức các cơ quan kiểm định PCCC Châu Á; tham gia nhiều cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm công tác PCCC, triển lãm quốc tế về lĩnh vực PCCC và cứu nạn, cứu hộ tại Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ… Qua đó đã nghiên cứu, học hỏi tiếp cận được với công nghệ PCCC tiến tiến và vận dụng hiệu quả vào điều kiện thực tế ở Việt Nam.